CHÀO MỪNG BẠN ĐẾN VỚI TRANG WEB TRUYỀN THÔNG GIÁO XỨ THÁNH TÂM      (website đang được phát triển - eMail: GXThanhTamHN@gmail.com) Bài giảng của ĐTC Lêô XIV lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống Vào lúc 10h30, Chúa Nhật ngày 08 tháng 06 năm 2025 tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Lêô chủ sự Thánh lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, trong dịp Năm Thánh các Phong trào, các Hiệp hội và các Cộng đoàn. Đọc tất cả   Các Nữ tu Gia đình Betania và sáng kiến cầu nguyện cho các linh mục Trong 26 năm, sáng kiến "Sứ vụ Betania hỗ trợ các linh mục" đã hợp nhất hàng ngàn giáo dân và giáo sĩ cầu nguyện cho các linh mục, cung cấp nhiều hình thức chăm sóc tinh thần và đồng hành với các giáo sĩ trong sứ vụ của họ. Sơ Daria Tyborska thuộc Dòng Nữ tu Gia đình Betania chia sẻ với Đài phát thanh Vatican: “Là những tín hữu, chúng ta đã quên cầu nguyện cho các linh mục, và chúng ta dễ dàng chú ý vào những sai lầm của họ và vào những lời buộc tội chống lại họ”. Đọc tất cả   ĐTC Lêô XIV chủ sự giờ Canh thức vọng Chúa Thánh Thần hiện xuống với 70.000 tín hữu tham dự Chủ sự giờ Canh thức tại Quảng trường Thánh Phêrô vào lúc 8 giờ tối thứ Bảy ngày 7/6/2025, lễ vọng Chúa Thánh Thần hiện xuống, Đức Thánh Cha Lêô XIV mời gọi khoảng 70.000 thành viên của các phong trào, hội đoàn và cộng đoàn đang tham dự Ngày Năm Thánh dành cho họ sống tinh thần hiệp nhất, cùng nhau bước đi trong một thế giới tan vỡ và bất an. Đọc tất cả   Trực tiếp Thánh Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Chúa Nhật 8/6/2025) Các múi giờ: 10:30 giờ Roma ; 15:30 giờ Việt Nam Đọc tất cả   Khi các cuộc biểu tình chống Công giáo gia tăng, tín hữu được mời gọi làm chứng về Thánh Thể Khi những người biểu tình chống Công giáo ở Oklahoma và Texas làm gián đoạn cuộc hành hương Thánh Thể Quốc gia, ông Jason Shanks, chủ tịch của Đại hội Thánh Thể Quốc gia, kêu gọi người Công giáo hãy đến với Chúa Giêsu. Ông nói: "Đây là cơ hội để chúng ta bước ra trong đức tin, bước ra để làm chứng và làm chứng về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Thánh Thể". Đọc tất cả   Các thành viên Cursillo Việt Nam tham dự Ngày Năm Thánh các phong trào Trong số khoảng 70 ngàn thành viên của các phong trào giáo hội, các cộng đoàn mới, các hiệp hội tín hữu, các tổ chức truyền giáo và đặc sủng tham dự Ngày Năm Thánh các phong trào, diễn ra tại Roma trong 2 ngày 7 và 8/6/2025, có khoảng 3.000 thành viên của phong trào Cursillo trên khắp thế giới, đặc biệt trong đó có khoảng 200 thành viên người Việt đến từ Việt Nam và Úc. Đọc tất cả   ĐTC Lêô XIV: Công đồng Nixêa là la bàn giúp các Giáo hội Kitô hướng tới hiệp nhất trọn vẹn Gặp gỡ các tham dự viên Hội thảo về Công đồng Nixêa và sự hiệp nhất của Công giáo và Chính Thống, Đức Thánh Cha nhắc lại rằng các Giáo hội Kitô có nhiều điểm chung với nhau hơn là những điều chia rẽ họ. Ngài tin rằng khi cùng cử hành và công bố đức tin của Công đồng chung Nixêa, các Giáo hội Kitô sẽ khôi phục sự hiệp thông trọn vẹn. Đọc tất cả   Giáo hội Công giáo Thái Lan được vinh danh trong cuộc chiến chống buôn người Giáo hội Công giáo Thái Lan, cách riêng sơ Marie-Agnes Suwanna Buasap thuộc Hội dòng Chị em Thánh Phaolô thành Chartres, đã được Bộ Phát triển Xã hội và An ninh Con người Thái Lan vinh danh trong một buổi lễ được tổ chức tại thủ đô, nhân Ngày Quốc gia Chống Buôn Người, ngày 05/6/2025. Đọc tất cả   Giáo phận Chiclayo tái thúc đẩy các công trình xã hội do Đức Thánh Cha Lêô XIV khởi xướng Năm dự án được khởi xướng bởi Đức cha Roberto Prevost, nay là Đức Thánh Cha Lêô XIV, sẽ được tiếp tục nhờ sự hỗ trợ của các tổ chức hiện diện tại giáo phận miền bắc Peru. Sáng kiến đặc biệt nhất liên quan đến việc tài trợ cho một chương trình kinh doanh kem que có hình dáng Đức Thánh Cha. Đọc tất cả   TGM Washington mời gọi các tín hữu phân định trong khi sử dụng công nghệ Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Washington và các Giám mục khác của Hoa Kỳ đã công bố một thư mục vụ, kêu gọi các Kitô hữu phân định “cách nói và sống Tin Mừng giữa ngôn ngữ và quyền lực mới đang nổi lên qua trí tuệ nhân tạo”. Đọc tất cả  

Giáo Hội Việt Nam

Tông thư nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày sinh của Blaise Pascal

21/06/2023 - 16

TÔNG THƯ NHÂN DỊP KỶ NIỆM 400 NĂM NGÀY SINH CỦA BLAISE PASCAL

Jean-Charles Putzolu

Blaise Pascal sinh ngày 19/6/1623. Là một nhà toán học và vật lý học, ông đã cống hiến cuộc đời mình để tìm kiếm Thiên Chúa, đưa đức tin và lý trí lại gần nhau hơn trong thái độ tôn trọng sự cao cả của đức tin. Ngày 19/6/2023, Đức Phanxicô đã bày tỏ lòng tôn trọng đối với ông trong một Tông thư có tựa đề “Sublimitas et miseria hominis” (“Sự cao cả và sự khốn khổ của con người”), nhân kỷ niệm 400 năm ngày sinh của ông.

Một người tìm kiếm chân lý không biết mệt mỏi”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã xác định Blaise Pascal, nhà toán học, vật lý học, triết gia và thần học gia, như thế, vào ngày kỷ niệm 400 sinh nhật của ông 19/6/1623 ở Clermont Ferrand, miền trung nước Pháp, ở trung tâm của Auvergne  và những ngọn núi lửa đã tắt của nó. Đức Phanxicô đã dành một Tông thư cho ông và khởi đi từ câu sau đây của Thánh vịnh 8, 5: “Con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?”.

Một câu hỏi hiện sinh, ở trung tâm của mỗi con người, mà Pascal đã tự hỏi và trả lời như sau: “Vì cuối cùng thì người ta trong cảnh vật này là gì? Đối với thái cực thì người ta là một cái hư vô, đối với cái hư vô thì người ta là một cái thái cực”[*]. Câu hỏi phản ánh nơi nhà toán học, người luôn cởi mở với thực tại,  một sự cởi mở khác “với các chiều kích của tri thức và tồn tại, cởi mở với người khác, cởi mở với xã hội”.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh, Pascal cũng là nguồng ốc của phương tiện giao thông công cộng đầu tiên ở Paris; điều này cho thấy con người này, trong quá trình tìm kiếm Thiên Chúa, và sau khi hoán cải, đã không bao giờ tách mình ra khỏi những vấn đề vật chất của xã hội thời bấy giờ. Do đó, Pascal đã không khép mình trước người khác, và ngay cả khi suy yếu vì bệnh tật, ông đã hứa cống hiến hết mình cho người nghèo, nếu Chúa cho phép ông bình phục. Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Thật cảm động khi ghi nhận rằng, trong những ngày cuối đời của mình, một nhà tư tưởng lỗi lạc như Blaise Pascal không thấy điều gì cấp bách hơn là dồn hết năng lực của mình để phục vụ lòng thương xót: “Đối tượng duy nhất của Thánh Kinh là đức ái””.

Một người bạn đồng hành đối với các Kitô hữu ngày nay

Đức Thánh Cha giải thích rằng chứng tá của Pascal là một khích lệ cho các Kitô hữu ngày nay. Ông vẫn là “người bạn đồng hành” trong “việc chúng ta tìm kiếm hạnh phúc đích thực và, theo hồng ân đức tin, trong việc chúng ta khiêm tốn và hân hoan nhận ra Chúa đã chết và sống lại”. Pascal đã nói một cách “tuyệt vời” về thân phận con người, và cuốn “Pensées” của ông là một “tượng đài” vốn “không thể hiểu được nếu người ta không biết rằng Chúa Giêsu Kitô và Thánh Kinh vừa là trung tâm vừa là chìa khóa của nó”. Và nếu Pascal được thúc đẩy viết về con người và Thiên Chúa, thì đó là vì ông đã đi đến chỗ xác tín rằng con người sẽ chẳng là gì nếu không có Thiên Chúa. Ông viết trong cuốn “Pensées” của mình: “Chúng ta chỉ biết sự sống, sự chết nhờ Chúa Giêsu Kitô. Ngoài Chúa Giêsu Kitô, chúng ta không biết sự sống hay sự chết của mình là gì, không biết Thiên Chúa hay chính chúng ta là gì”.

Tuy nhiên, Đức Thánh Cha nói tiếp, chúng ta phải tránh xa cám dỗ phô trương đức tin của mình như là một “sự chắc chắn không thể chối cãi”. Pascal biết rằng ân sủng của Thiên Chúa chỉ có thể được đón nhận nơi một con tim tự do. “Tôi đề nghị tất cả những ai muốn tiếp tục tìm kiếm chân lý – một nhiệm vụ không có hồi kết trong cuộc đời này -, hãy lắng nghe Blaise Pascal, một người có trí thông minh phi thường muốn nhắc nhở chúng ta rằng bên ngoài mục đích của tình yêu thì không có chân lý nào đáng giá […] vì chân lý bên ngoài tình yêu không phải là Thiên Chúa, và là hình ảnh của Ngài và là một thần tượng không được yêu mến hay tôn thờ”, Đức Thánh Cha viết như thế, mà đối với ngài, Pascal bảo vệ chống lại những học thuyết sai lầm và mê tín dị đoan. Khi nhìn thấy sự xấu xa và chọn lựa nó, chỉ có sức mạnh của Chúa Thánh Thần mới có thể giải thoát chúng ta khỏi sự yếu hèn và, trích dẫn cuộc phỏng vấn với M. de Sacy, Đức Phanxicô nói tiếp: “Nếu không có sự khôn ngoan phân định, chúng ta có thể dễ dàng trở thành những con rối phó mặc cho các xu hướng của chốc lát”. Đối với Đức Thánh Cha, trí thông minh và đức tin sống động của Blaise Pascal có thể giúp tiến bộ xuyên qua những tối tăm và bất hạnh của thế giới này.

Một đứa trẻ thông minh phi thường

Pascal trải qua thời thơ ấu với chị và em gái, được cha nuôi dưỡng sau khi mẹ ông qua đời lúc ông chỉ mới 3 tuổi. Từ khi còn nhỏ, ông đã bộc lộ trí thông minh phi thường  và chứng mình được các công thức toán học mà không hề biết rằng những định lý này đã tồn tại. Ông thường lui tới các học giả cùng thời lúc ông 17 tuổi, và hai năm sau, ông đã phát triển chiếc máy tính đầu tiên. Đắm chìm trong thế giới của lý trí con người, “ông mời gọi chúng ta sử dụng nó để giải mã thế giới xung quanh chúng ta”. Đức Thánh Cha nhận định: “Việc thực hành tin tưởng vào lý trí tự nhiên này, điều khiến ông liên đới với tất cả các anh em đồng loại của mình trong việc tìm kiếm chân lý, sẽ cho phép ông nhận ra giới hạn của chính trí tuệ và, đồng thời, mở ra cho những lý do siêu nhiên của Mặc Khải”.

Triết gia

Theo Đức Thánh Cha, nhiều tác phẩm của Pascal, chẳng hạn như “Pensées”, thuộc phạm vi diễn ngôn triết học. Cần phải lưu ý điều này để hiểu các tác phẩm của ông về Kitô giáo. Pascal là một người ngưỡng mộ các triết gia Hy Lạp, như Platon và Aristote, nhưng ông nhận ra giới hạn của các triết gia này là những giới hạn của lý trí. Tự nó mà thôi, lý trí không thể mang lại câu trả lời cho tất cả các vấn đề như vấn đề, mà hôm qua cũng như hôm nay, có tầm quan trọng nhất, “về ý nghĩa trọn vẹn của số phận, cuộc sống và hy vọng của chúng ta”. Đức Phanxicô tìm thấy trong “Pensées” nguyên tắc theo đó thực tại lớn hơn ý tưởng, nguyên tắc “dạy chúng ta tránh xa những cách khác nhau che khuất thực tại”, và do đó tránh xa “những ý thức hệ chết chóc mà chúng ta tiếp tục đau khổ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, nhân chủng học hay luân lý” vốn “kìm giữ những người theo chúng trong bong bóng niềm tin trong đó ý tưởng đã thay thế hiện thực”.

Triết lý của Pascal nằm ở một khái niệm khác: con người vừa cao cảo vừa khốn khổ. Cao cả  bởi lý trí của nó, và cũng cao cả bởi vì nó biết mình khốn khổ. Giữa hai thái cực của mình, con người chọn quên đi bằng công việc, bằng giải trí hay các mối tương quan gia đình hay bằng hữu, nhưng cũng bằng những tật xấu mà một số đam mê hướng tới. Đức Thánh Cha viết: “Tuy nhiên, sự giải trí không xoa dịu cũng như không lấp đầy khát vọng lớn lao của chúng ta về cuộc sống và hạnh phúc”. Vậy mà, vực thẳm vô tận này chỉ có thể được lấp đầy bởi Thiên Chúa. Đi đến kết luận này, Đức Thánh Cha viết, Pascal “là người Kitô hữu muốn nói về Chúa Giêsu Kitô cho những người hơi vội vàng quyết định rằng không có lý do vững chắc để tin vào những chân lý của Kitô giáo”.

Đêm lửa sáng, sự hoán cải

Vào ngày 23/11/1654, Pascal đã sống một trải nghiệm thần bí mãnh liệt, “đêm lửa sáng”, mà ông đã ghi lại ngày tháng và kể lại trong một Bản ký sự được tìm thấy trong áo khoác của ông sau khi ông qua đời. Cuộc “gặp gỡ” này của Pascal với Thiên Chúa khiến ông tràn ngập “niềm vui sống động và vô tận”. “Pascal làm chứng điều này cho toàn thể Giáo hội cũng như cho bất kỳ người tìm kiếm Thiên Chúa nào: đó không phải là Thiên Chúa trừu tượng hay Thiên Chúa vũ trụ. Đó là Thiên Chúa  của một ngôi vị, của một tiếng gọi, Thiên Chúa  của Abraham, Isaac và Giacóp, vị Thiên Chúa  là sự chắc chắn, là cảm xúc, là niềm vui”.

Và Đức Thánh Cha Phanxicô trích dẫn lời vị tiền nhiệm là thánh Gioan-Phaolô II trong thông điệp về mối tương quan giữa đức tin và lý trí: các triết gia như Pascal “đã cảm nghiệm rằng đức tin giải thoát lý trí khỏi tính tự phụ”.

Tiếp đến, lấy lại  Đức Bênêđíctô XVI, Đức Phanxicô tiếp tục nói về chủ nghĩa duy tín, nói cách khác là ý chí tin tưởng chống lại lý trí, vốn bị bác bỏ bởi truyền thống Công giáo, và giải thích sự gắn bó sâu sắc của Pascal với “tính hợp lý của đức tin vào Thiên Chúa”. Đức tin hợp lý là một món quà của Thiên Chúa, Đấng không áp đặt, và đối với Pascal, “có đủ ánh sáng cho những ai chỉ ao ước nhìn thấy, và đủ bóng tôi cho những ai có khuynh hướng ngược lại”. Ông nói, “đức tin” khác với “bằng chứng”; cái này “thuộc về con người”, cái kia là “một hồng ân của Thiên Chúa”.

Và vì trong lời khẳng định này, nơi Pascal, một lần nữa có mối liên hệ thường hằng giữa đức tin và lý trí, nên Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi làm quen với công trình của ông để “đặt mình vào trường học của một Kitô hữu có tính lý trí phi thường, biết rất rõ ý thức đến một trật tự được thiết lập bởi hồng ân của Thiên Chúa trên lý trí”. “Cái nhìn rất rõ ràng” về thế giới và chính mình mà Blaise Pascal đạt được là kết quả của “trí tuệ tinh xảo” của ông vốn đặt chúng ta trên con đường của “trái tim”. Ông viết trong “Pensées”: “Chúng ta biết được chân lý không chỉ bằng lý trí mà còn bằng trái tim, chính bằng cách sau cùng này mà chúng ta biết được các nguyên lý đầu tiên và thật vô ích khi sự lý luận cố gắng chống lại chúng, mà không có phần nào trong đó”. Đức Phanxicô nói thêm: “Các chân lý thần linh, chẳng hạn như việc Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng chúng ta, là tình yêu, việc Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, việc Ngài đã nhập thể trong Chúa Giêsu Kitô, chết và phục sinh để cứu độ chúng ta – không thể chứng minh được bằng lý trí, nhưng có thể được biết bằng sự chắc chắn của đức tin, và tiếp đến chuyển từ trái tim thiêng liêng sang khối óc lý trí, nơi công nhận chúng là chân thật”.

Thuyết Jansen (Jansénisme)

Đức Phanxicô dành một đoạn trích từ thư mục vụ của mình cho giai đoạn tranh cãi này trong cuộc đời của Pascal. Jacqueline, em gái của ông, gia nhập một dòng tu chịu ảnh hưởng bởi Cornélius Jansen. Chính Pascal, sau khi trở lại, đã tỉnh tâm ở đan viện Port Royal vào tháng 1/1655, nơi em gái ông đang ở. Tuy nhiên, vì không thuộc dòng ở Port Royal, nên vào năm 1656 và năm tiếp sau, ông được giao nhiệm vụ bảo vệ những người theo thuyết Jansen trong cuộc tranh cãi của họ với các tu sĩ Dòng Tên, đặc biệt xung quanh vấn đề về ân sủng của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha viết: “Nếu một số đề nghị được gọi là “theo thuyết Jansen” thực sự trái ngược với đức tin, điều mà Pascal đã nhìn nhận, thì ông đã phản đối rằng chúng có mặt trong tác phẩm Augustinus, và được mọi người của Port-Royal theo đuổi. Tuy nhiên, một số khẳng định riêng của ông, chẳng hạn liên quan đến sự tiền định, được rút ra từ thần học của thánh Augustinô, mà các công thức của nó đã được Jansénius trau chuốt, là không đúng. […] Lúc đó, Pascal chân thành tin rằng ông đang tấn công chủ thuyết Pêlagiô hay chủ thuyết bán-Pêlagiô mà ông nghĩ rằng ông đã xác định được trong các học thuyết được theo đuổi bởi các tu sĩ Dòng Tên theo thuyết Molina, được đặt theo tên của nhà thần học Luis de Molina, qua đời vào năm 1600 nhưng ảnh hưởng của ông vẫn còn sống động vào giữa thế kỷ XVII”. Và Đức Thánh Cha kết luận về chương này: “Chúng ta hãy tin tưởng vào ông vì sự thẳng thắn và chân thành trong các ý định của ông. […] Lập trường cuối cùng của Pascal về ân sủng, và đặc biệt là về việc Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận thức đầy đủ về sự thật, đã được phát biểu bằng những thuật ngữ Công giáo hoàn hảo vào cuối đời của ông”.

Những dòng cuối cùng trong Tông thư của Đức Thánh Cha nhấn mạnh “sự phong phú và hiệu quả phi thường” của cuộc đời ngắn ngủi của Pascal. Bị bệnh nặng, ông qua đời lúc mới 39 tuổi, vào ngày 19/8/1662 với ước nguyện “Xin Chúa không bao giờ bỏ rơi con”.

 Tý Linh
(theo Jean-Charles Putzolu, Vatican News)
Nguồn: xuanbichvietnam.net (19.06.2023)

Theo nhật báo La Croix, năm 2017, trong một cuộc phỏng vấn trên nhật báo La Repubblica của Ý, vị Giáo hoàng người Argentina cho rằng Pascal có thể được phong chân phước. Thủ tục đáng lẽ phải được thực hiện bởi giáo phận Paris, nhưng vẫn chưa được xúc tiến.



[*] Câu đầy đủ của Pascal như sau: “Vì cuối cùng thì người ta trong cảnh vật này là gì? Đối với thái cực thì người ta là một cái hư vô, đối với cái hư vô thì người ta là một cái thái cực, nghĩa là một khoảng giữa cái có với cái không. Người ta còn xa lắm mới hiểu được cái cùng cực, cho nên cái nhẽ cứu cánh cùng cái nguyên lý vạn vật còn bí mật không tài nào khám phá được; không thể biết được cái hư vô ở đấy mà ra, mà cũng không thể biết được cái thái cực tiêu diệt về đấy” (“Car enfin qu’est-ce que l’homme dans la nature? Un néant à l’égard de l’infini, un tout à l’égard du néant, un milieu entre rien et tout. Infiniment éloigné de comprendre les extrêmes, la fin des choses et leur principe sont pour lui invinciblement cachés dans un secret impénétrable; également incapable de voir le néant d’où il est tiré, et l’infini où il est englouti”, bản dịch của Phạm Quỳnh).



Nguồn: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam - hdgmvietnam.com

× Thành công! Câu hỏi của cộng đoàn đã được gửi. Câu hỏi của quý vị sẽ được trả lời trong thời gian sớm nhất có thể. Xin cám ơn. Trân trọng.